Cuối cùng, bạn cần đọc những hàm ý khi nó đã được cô đọng thành thục. Bạn không cần phải nhớ toàn bộ tên các nhân vật, rất nhiều trong số đó chỉ đơn thuần làm nền cho các nhân vật chính. Không nên sử dụng một cuốn sách tham khảo trước khi biết tác giả khuyên bạn nên sử dụng nó như thế nào.
Hai cụm từ có thể cùng biểu đạt một ngữ, và một cụm từ có thể đồng thời biểu đạt nhiều thuật ngữ, đúng như cách sử dụng của từ. Khi đó bạn sẽ làm gì? Bạn có thể mang cuốn sách đến nhờ người nào hiểu rõ hơn bạn (một người thật hoặc một cuốn sách khác) giải thích những vướng mắc. Việc học được thực hiện thông qua ngôn từ dưới dạng viết hay nói, và thông qua việc đọc và nghe.
Tiêu biểu chỉ có thể kể đến các vở bi kịch của Aeschylus, Sophocles và Euripedes, các vở kịch của Shakespeare, các vở hài kịch của Moliere và một vài tác phẩm của số ít nhà văn hiện đại. Một là, nó nâng cao kỹ năng đọc của bạn khi bạn đọc thành công một tác phẩm hay và khó; hai là, một cuốn sách hay có thể dạy bạn rất nhiều điều về thế giới và về bản thân bạn. Vì vậy, độc giả cần tuân theo các quy tắc ở hai giai đoạn đầu của quá trình đọc phân tích trước khi chuyển sang giai đoạn thứ ba.
Khi thiếu những kiến thức cần thiết, chúng ta không thể giải quyết được những vấn đề nhất định, hoặc không thể chứng minh cho các kết luận nhất định. Tính thống nhất trong tác phẩm Ethics (Đạo đức học) của Aristotle có thể được trình bày như sau: Tất nhiên, nếu một số nguyên tắc được chấp nhận và cách tư duy dựa trên các nguyên tắc đó có sức thuyết phục thì có cơ sở để chấp nhận các kết luận, ít nhất cũng như chấp nhận các nguyên tắc.
Nó không hướng tới kết quả nào khác ngoài nó. Một số nghiên cứu xã hội học chỉ đơn thuần mô tả, chứ không đánh giá hay nhận định gì về thái độ, hành vi thực tế của con người thì không được coi là sách về đạo đức hay sách thực hành. Câu hỏi thứ tư (Ý nghĩa của cuốn sách là gì?) có nhiều thay đổi nhất.
Tất nhiên một cuốn bách khoa toàn thư vẫn được phép ghi lại ý kiến các nhân (ví dụ, trong một cụm từ như một số người cho rằng…, số khác lại thấy…) nhưng cần phải nói rõ ràng. Bạn cũng có thể thấy nhận xét thứ tư kết nối ba giai đoạn trong quá trình đọc phân tích ở bất kỳ cuốn sách nào. Tác giả đã nói rõ ràng ngay từ đầu:
Sau khi nắm được cốt truyện, qua đó nắm được sự thống nhất của toàn bộ phần lời kể, bạn có thể sắp xếp các phần vào vị trí phù hợp. Các quy tắc đọc sách văn học giả tưởng cũng xuất phát từ bốn câu hỏi này, mặc dù sự khác nhau về bản chất của các tài liệu đọc sẽ dẫn tới một vài điểm không tương đồng trong quá trình phát triển. Một số khác để nuốt.
Do việc phải biết cấu trúc của một cuốn sách hết sức cần thiết nên chúng ta có quy tắc đọc sách thứ hai và thứ ba. Điều này không hề đơn giản vì các câu hỏi phải được đặt ra theo cách thức và trình tự để vừa giúp ta giải quyết được vấn đề, được trả lời lần lượt bởi từng tác giả. Bài thơ thứ 138, cũng rất nổi tiếng, bắt đầu bằng những dòng:
Vấn đề nằm ở chính việc gạt bỏ hoàn toàn các câu hỏi triết học hạng nhất vốn rất được độc giả bình thường quan tâm. Có thể, anh ta có một thuyết hay một triết lý chung nào đó, giống như Thượng đế điều khiển mọi chuyện của con người và làm cho câu chuyện lịch sử của anh ta khớp với lý thuyết đó; hoặc anh ta có thể bỏ bất cứ khuôn mẫu nào ở trên, thay vào đó tuyên bố rằng anh ta đơn thuần tường thuật lại những sự kiện đã thật sự xảy ra. Bất kỳ ai biết đọc đều có thể đọc để giải trí nếu muốn.
Người ta thường nói rằng hầu hết các bài thơ trữ tình ngắn của Shakespeare đều viết vế sự tàn phá của cái mà ông gọi là thời gian huỷ diệt. Quy tắc này không nhằm mục đích tìm ra cấu trúc của cuốn sách mà hướng tới việc phân tích nội dung sách hay thông điệp mà tác giả gửi gắm trong đó. Nếu tác giả tóm tắt các lập luận ở cuối chương hoặc cuối một phần nào đó, bạn có thể xem lại các trang trước để tìm những chi tiết được tác giả tổng hợp trong tóm tắt.